Những hiểu biết chung về bệnh suy giãn tĩnh mạch

 

1.Giãn tĩnh mạch là gì?

Giãn tĩnh mạch là bệnh lý khá phổ biến. Theo thống kê của Tổ chức Bác sĩ gia đình Hoa Kỳ, hiện nay có khoảng 10-20% đàn ông và 25-33% phụ nữ Mỹ bị suy giãn tĩnh mạch.

Đây là tình trạng các tĩnh mạch bị giãn ra, phồng lên, có thể nằm nông và nổi ngoằn ngoèo dưới da, màu tím hoặc xanh, thường xuất hiện ở chân, một số trường hợp thấy cả ở âm hộ hay trực tràng (bệnh trĩ).

Tĩnh mạch giãn có màu xanh, tím (Ảnh minh họa).

Yếu tố nguy cơ của giãn tĩnh mạch:

+ Tiền sử gia đình có người mắc bệnh giãn tĩnh mạch.

+ Giới tính: gặp ở phụ nữ nhiều hơn đàn ông.

+ Tuổi: tuổi càng cao thì nguy cơ bị giãn tĩnh mạch càng tăng.

+ Béo phì.

+ Mang thai: do thay đổi hormone, thai đôi hoặc đa thai.

+ Nghề nghiệp phải đứng nhiều, ít di chuyển (như giáo viên).

Giai đoạn đầu, bệnh thường ít có triệu chứng, đôi khi chỉ là cảm giác hơi khó chịu, tức nặng ở chân. Vùng da nơi giãn tĩnh mạch có thể ngứa hoặc nóng hơn. Các triệu chứng nặng dần về cuối ngày, đặc biệt khi bệnh nhân phải đứng lâu.

Trên siêu âm, biểu hiện chính của suy giãn tĩnh mạch là:

– Siêu âm 2D: đường kính tĩnh mạch tăng lên.

– Siêu âm Doppler màu: xuất hiện dòng chảy ngược bệnh lý khi làm nghiệm pháp dồn đẩy máu, gia tăng cả về thời gian hiện diện lẫn lưu lượng.

– Siêu âm Doppler xung: khi thực hiện nghiệm pháp dồn đẩy máu, phổ Doppler có sự gia tăng đồng loạt các giá trị vận tốc và thời gian diễn ra dòng chảy ngược.

Dòng chảy ngược trên Doppler xung (Ảnh minh họa).

2.Nguyên nhân giãn tĩnh mạch trên phụ nữ có thai.

Nhiều phụ nữ phát hiện bị giãn tĩnh mạch khi đang mang bầu. Do khoảng thời gian này, tử cung lớn dần lên, chèn ép vào các mạch máu lớn của ổ bụng (chủ yếu là phía bên phải) dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch ở chân.

Tĩnh mạch có chức năng chính là vận chuyển máu từ ngoại vi về tim, ngoài ra, các tĩnh mạch ở vị trí thấp như chi dưới còn phải chống lại sức cản của trọng lực cơ thể. Bên cạnh đó, khi mang thai, thể tích máu trong cơ thể nhiều hơn làm tăng gánh nặng lên hệ tuần hoàn. Đồng thời, hàm lượng hormone Progesterone cũng tăng dần về cuối thai kỳ, gây giãn thành mạch.

Tuy nhiên, sau khi sinh, các triệu chứng của bệnh sẽ giảm dần, và hiện nay cũng có rất nhiều phương pháp điều trị.

3.Mức độ nguy hiểm của giãn tĩnh mạch.

Tuy giãn tĩnh mạch có thể gây ngứa hay đau, thậm chí chảy máu (do da vùng này trở nên mỏng và dễ tổn thương) nhưng đây không phải là bệnh cấp tính, chưa gây hại ngay lập tức trong thời gian ngắn.Tỷ lệ bệnh nhân giãn tĩnh mạch có xuất hiện cục máu đông gần bề mặt da (huyết khối tĩnh mạch nông) cũng không cao. Khi hình thành huyết khối, khu vực quanh chỗ giãn tĩnh mạch trở nên nóng, đỏ và đau hơn.

Huyết khối tĩnh mạch nông thường không quá nguy hiểm. Nhưng khi tổ chức xung quanh huyết khối bị nhiễm trùng, bệnh nhân cần phải được điều trị ngay bằng kháng sinh, đặc biệt người bệnh nên đi khám càng sớm càng tốt nếu một trong hai chân sưng to bất thường, có vết loét hoặc vùng da gần tĩnh mạch đổi màu.

Trong khi đó, huyết khối tĩnh mạch sâu gây hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều, thậm chí dẫn tới tử vong. Chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch sâu dựa trên lâm sàng kết hợp với siêu âm.

Đối với phụ nữ mang thai, dù không bị giãn tĩnh mạch thì vẫn có nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu, nhưng tỷ lệ này khá thấp. Chỉ khoảng 1 trên 1000 phụ nữ mang thai hoặc sau sinh vài tuần xuất hiện huyết khối tĩnh mạch sâu. Tuy nhiên, nguy cơ sẽ tăng lên với những sản phụ có rối loạn đông máu hoặc nằm lâu. Dấu hiệu chính là đột ngột thấy sưng đau ở chân, đùi, đau tăng khi đứng, kèm theo sốt nhẹ, nhưng cũng có thể chưa biểu hiện gì.

Nếu không được điều trị, cục máu đông hoàn toàn có thể di chuyển lên cao, gây tắc mạch phổi và đe dọa đến tính mạng người bệnh. Ước tính tại Mỹ, huyết khối tĩnh mạch sâu gây ra 60.000 đến 300.000 ca tử vong mỗi năm. Một số dấu hiệu sớm của tắc mạch phổi như khó thở, đau khi thở, ho (hoặc ho ra máu), nhịp tim nhanh.

4.Dự phòng và điều trị.

Dự phòng và điều trị giãn tĩnh mạch chủ yếu là thay đổi thói quen sinh hoạt, kết hợp với các phương pháp y học.

Một số lời khuyên dành cho các bà mẹ đang mang bầu:

Tập thể dục hoặc đi bộ thường xuyên mỗi ngày giúp hỗ trợ, cải thiện hệ tuần hoàn.

Kê cao chân khi ngồi và cả trong lúc ngủ.

Hạn chế đứng hoặc ngồi một tư thế trong thời gian dài.

Không đi giày cao gót.

Khi ngủ nên nằm nghiêng sang trái. Có thể sử dụng gối tựa để giữ tư thế ngủ và nâng cao chân. Tư thế này giúp làm giảm áp lực của tử cung lên các tĩnh mạch lớn ở bên phải ổ bụng.

Duy trì mức cân nặng phù hợp trong các tháng của thai kỳ.

Bổ sung vitamin hàng ngày bằng chế độ ăn uống cân bằng trong thời kỳ mang thai sẽ giữ cho hệ tĩnh mạch khỏe mạnh. Ăn nhiều thực phẩm có vitamin C, đây là nguyên liệu mà cơ thể sử dụng để sản xuất collagen và elastin (mô liên kết) giúp sửa chữa và duy trì sức bền của thành mạch máu.

Đệm gối và kê cao chân khi nằm, ngủ (Ảnh minh họa).

Các phương pháp điều trị:

Sử dụng tất y tế: Đây là phương pháp không dùng thuốc rất thông dụng và hiệu quả. Loại tất này tạo ra áp lực lên từng phần của chân, phù hợp với sinh lý bình thường: chặt hơn ở gần cổ chân và lỏng dần khi lên cao, luôn ôm lấy chân và đẩy máu theo các tĩnh mạch đi về tim, đồng thời làm tăng tốc độ tuần hoàn máu, giảm thiểu nguy cơ hình thành huyết khối do tốc độ dòng máu chảy chậm gây ra. Tác dụng làm khép kín các van tĩnh mạch và tạo áp lực phù hợp là hai đặc tính quan trọng nhất của tất y tế mà không loại thuốc nào thể thay thế được.

Để ngăn chặn máu ứ trệ ở chân, vào buổi sáng trước khi ra khỏi giường, bệnh nhân nên đi tất ngay lúc đang nằm, và sử dụng cả ngày.

Sử dụng tất y tế chuyên dụng (Ảnh minh họa).

– Ngoài ra, với những bệnh nhân nặng hơn, còn một số phương pháp điều trị khác như tiêm xơ tĩnh mạch (kéo dài 4 đến 6 tuần, sau đó kết hợp với dùng tất y tế), đốt bằng sóng cao tần, đốt laser nội mạch hay phẫu thuật cắt bỏ tĩnh mạch bị giãn.

– Sử dụng thuốc đông y hành khí hoạt huyết, dưỡng mạch kết hợp châm cứu để giảm suy giãm, ngăn ngừa bệnh nặng hơn

Các phương pháp này đều có tính hiệu quả và an toàn cao, được sử dụng rộng rãi, góp phần không nhỏ cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Các triệu chứng của giãn tĩnh mạch thường sẽ tự giảm dần trong vòng 3 đến 4 tháng sau sinh, hoặc lâu hơn. Nhưng cũng có một số trường hợp không cải thiện được nhiều, đặc biệt với những bà mẹ mang thai đôi hoặc đa thai.

Lúc này, bệnh nhân nên đi tất y tế chuyên dụng, tập thể dục nhẹ nhàng mỗi ngày, tránh ngồi hoặc đứng lâu, kê cao chân khi ngồi và ngủ. Nếu tình trạng giãn tĩnh mạch vẫn không thay đổi nhiều, ảnh hưởng đến sinh hoạt thì cần tới điều trị tại các trung tâm chuyên khoa tim mạch.

--> Suy giãn tĩnh mạch có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm đến tính mạng, bệnh nhân không nên chủ quan, cần đến khám định kỳ và điều trị tích cực càng sớm càng tốt.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *